Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012

Thứ Hai, 27 tháng 9, 2010

BÀN VỀ CHỮ TÍN

KIM DUNG*
Tín là chữ gốc Hán đã được Việt hóa từ lâu. Theo chiết tự, “cấu tạo” của chữ Tín gồm:
- Bên trái là chữ Nhân đứng, nghĩa là người.
- Bên phải là chữ Ngôn: Chữ Ngôn gồm chữ Nhị ở trên, chữ Khẩu ở dưới, ngụ ý tuy “hai miệng” nhưng có “một lời”, trước sau như một, không thiên lệch, không thay đổi ( ). Suy rộng ra, chữ Tín là để chỉ niềm tin, đức tin... mà ai cũng phải nghiêm túc giữ gìn và làm theo. Trong truyện Kiều, khi Kim Trọng và Thúy Kiều thề thốt, có câu “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là để dặn nhau thủy chung như nhất, giữ lấy niềm tin suốt đời.
Chữ Tín có vai trò “sống còn” đối với mỗi người, mỗi cơ quan, mỗi địa phương và cả quốc gia. Đạo Nho quan niệm: Người quân tử nhất định phải có Ngũ thường, gồm: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Trong đó, nhân là lòng yêu thương đối với muôn loài; nghĩa là cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải; lễ là sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người; trí là sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai; tín là giữ đúng lời, đáng tin cậy. “Nhân bất tín bất lập”, người không có tín thì không thể tồn tại. Chữ Tín coi như bảo bối của quốc gia (Tín vi quốc chi bảo). Ai trị vì đất nước thì phải giữ bằng được bảo bối để mong mở mặt với thiên hạ. Người bội tín nói lời rồi lại nuốt lời, tiền hậu bất nhất... thì bản thân sẽ bị cô lập, cơ quan sẽ mất tín nhiệm, làm gì nói gì cũng không có người tin nữa (Nhất sự bất tín, vạn sự bất tin). Trong văn hoá giao tiếp, người ta quan niệm: mất gì thì mất đừng để mất lòng tin, bởi vì mất của cải, mất thời gian là mất rất nhiều nhưng mất lòng tin là mất tất cả.
Chữ Tín còn được ghép với nhiều từ khác để làm rộng khái niệm: Tin và giao nhiệm vụ gọi là “Tín nhiệm”, tin và dùng gọi là “Tín dụng”, tin vào việc phải gọi là “Tín nghĩa”.
Tuy vậy, nói về chữ Tín thì dễ, giữ được tín còn khó hơn nhiều, lắm khi còn phải hy sinh của cải, thậm chí cả tính mạng mình để giữ bằng được niềm tin ở đời. Chuyện xưa kể: Nước Lỗ có cái đỉnh nạm ngọc quý làm bảo quốc để thờ. Vua Tề đe dọa gây chiến để chiếm đỉnh làm của riêng. Vua Lỗ sai Chính Tử làm đỉnh giả để cống nộp, song Chính Tử bảo: “Nhà vua quý cái đỉnh ấy bao nhiêu thì tôi quý chữ tín bấy nhiêu!”. Ông đành chịu tội “khi quân” để giữ chữ tín.
Ở ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt coi trọng chữ tín. Từ cuộc sống hàng ngày đến việc quốc gia đại sự, Người không bao giờ để thất tín. Bác quan niệm: Đã là gương thì phải sáng, đã nói là phải làm và không bao giờ Bác viện lý do nào để sai lời hứa. Năm 1947, có một cuộc họp tại chiến khu Việt Bắc. Mưa rừng, lũ cuốn phăng phăng, ai cũng lo Bác không tới được. Vậy mà đến gần giờ họp, mọi người thấy Bác đến, tay chống gậy, nước mưa ướt đầm đìa râu tóc.
Ngày nay, trong thời “kinh tế thị trường”, đồng tiền có thể làm cho chúng ta giàu lên nhưng chính niềm tin mới giữ được danh dự và sự “phát triển bền vững”. Đối với mọi người, “lời hứa là món nợ”, nợ thì phải trả, nhất là lời hứa của những người mới đắc cử trước sự tin tưởng của nhân dân, đồng chí. Quả thật, “chữ Tín quý hơn vàng”.
* Hội Văn học - Nghệ thuật Thái Bình

Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010

U MỘNG ẢNH


TRƯƠNG TRÀO

U MỘNG ẢNH


Huỳnh Ngọc Chiến
dịch và chú thích
Quyển thượng

1. Kinh sách nên đọc vào mùa đông, vì tinh thần chuyên nhất; sử nên đọc vào mùa hè, vì ngày dài; chư tử nên đọc vào mùa thu, vì tư tưởng khác biệt; sách các nhà khác nên đọc vào mùa xuân, vì khí trời thoải mái.
讀 經 宜 冬, 其 神 專 也 ; 讀 史 宜 夏, 其 時 久 也 ; 讀 諸 子 宜 秋, 其 致 別 也 ; 讀 諸 集 宜 春 其 機 暢 也。

Độc kinh nghi đông, kỳ thần chuyên dã; độc sử nghi hạ, kỳ thời cửu dã; độc chư tử nghi thu, kỳ trí biệt dã; độc chư tập nghi xuân, kỳ cơ sướng dã.
2. Kinh truyện1 nên đọc một mình, mà sử giám2 nên đọc cùng bạn.
經 傳 宜 獨 坐 讀,史 鑑 宜 與 友 共 讀。

Kinh truyện nghi độc tọa độc; sử giám nghi dữ hữu cộng độc.

3. Không thiện không ác là bậc thánh, nhiều thiện ít ác là bậc hiền, ít thiện nhiều ác
là hạng người tầm thường, có ác không thiện là hạng tiểu nhân, có thiện không ác là hàng Tiên, Phật.
無 善 無 惡 是 聖 人, 善 多 惡 少 是 賢 者, 善 少 惡 多 是 庸 人, 有 惡 無 善 是 小 人, 有 善 無 惡 是 仙 佛。

Vô thiện vô ác thị thánh nhân; thiện đa ác thiểu thị hiền giả; thiện thiểu ác đa thị dung nhân; hữu ác vô thiện thị tiểu nhân; hữu thiện vô ác thị Tiên Phật.

4. Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì có thể không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Uyên Minh3 làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh4 làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do5 làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê6 làm tri kỷ,





1 Kinh truyện:Kinh chỉ những tác phẩm kinh điển, truyện thường dùng để lời chú thích và giảng
nghĩa những tác phẩm kinh điển ấy.

2 Sử và giám chỉ chung những tác phẩm lịch sử soạn theo lối kinh truyện hoặc theo lối biên niên, nhằm ghi lại những bài học lịch sử cho đời sau.
3 Tức Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, trả áo từ quan về vui cảnh điền viên. Có bài Quy khứ lai từ rất nổi tiếng. Ông sống thanh cao, và rất yêu hoa cúc, làm nhiều bài thơ về hoa cúc. Trong hai mươi bài thơ “Ẩm tửu” có câu “Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn” 採菊東籬下,悠然見南山 (hái cúc bờ rào phía đông, xa xa thấy núi Nam)

4 Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là”Tây Hồ ẩn sĩ”. Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
5 Tức Vương Huy Chi, con trai nhà thư pháp Vương Hy Chi, tự Tử Do, người đời Đông Tấn. Theo Thế
thuyết tân ngữ, Vương Huy Chi có lần đến ở trọ nhà người, bảo trồng trúc. Có người hỏi : “Ở tạm,
vậy có phiền gì chăng?”. Vương chỉ cây trúc, bảo: “Hà khả nhất nhật vô thử quân? 何可一日 無 此 君!(Làm sao có thể một ngày thiếu người này được?).

6 Tức Chu Đôn Di, nhà lý học đời Nam Tống, yêu hoa sen, có bài “Ái liên thuyết” nổi tiếng ở đời.
đào lấy những người trốn vua Tần làm tri kỷ7, hạnh lấy Đổng Phụng8 làm tri kỷ, đá lấy
Mễ Điên9 làm tri kỷ, trái vải lấy Thái Chân10 làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng11, Lục Vũ12 làm
tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân13 làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng14 làm tri kỷ, chuối lấy
Hoài Tố15 làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình16 làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông17 làm tri kỷ, ngỗng
lấy Hữu Quân18 làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành19 làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi20 làm tri



7 Theo Đào hoa viên ký của Đào Tiềm có người nhặt cánh hoa đào trên suối, bèn lần theo con suối
đi ngược về nguồn thì gặp một làng trông toàn đào sống thanh bình như cảnh thần tiên. Hỏi ra mới biết tổ tiên họ là những người trốn chính sách tàn bạo của nhà Tần lánh đến đây sống.
8 Danh y thời Tam Quốc, tự Quân Dị. Mõi khi chữa bệnh cho người, không lấy thù lao mà chỉ yêu cầu trồng hạnh. được hơn mười vạn gốc hạnh. Khi hạnh ra trái, ông đem đổi gạo để giúp người nghèo.
9 Tức Mễ Phí đời Nam Tống, yêu đá đến độ si cuồng, có lần khăn áo chỉnh tề ra lạy viên đá gọi là
”ông nhạc” nên bị đời gọi là Mễ Điên.

10 Tứ Dương Quý Phi, rất thích ăn trái vải (lệ chi) của đất Bắc Việt Nam. Đến mùa vải. Đường Minh Hoàng phải cho ngựa trạm mang vải từ miền Bắc Việt Nam đến kinh đô Trường An cho Dương Quý Phi.
11 Nhà thơ đời Đường, hiệu Ngọc Xuyên Tử, rất mê trà, có bài thơ Trà Ca.

12 Tác gia đời Đường có cuốn Trà Kinh, được xem là cuốn kinh điển về trà.

13 Tức Khuất Nguyên, nhà thơ lớn đời Chiến Quốc, có tập Sở Từ nổi tiếng. Trong thơ, ông nói đến cỏ
thơm để ví với lòng trung của người quân tử.

14 Trương Hàn, tự Quý Ưng, đời Tấn làm quan ở Lạc Dương, nghe gió thu nổi lên, bỗng nhớ món canh rau rút cá rô (thuần lư) ở quê nhà, bèn từ quan về quê; về sau từ "thuần lư" được dùng để chỉ lòng nhớ quê.
15 Tăng nhân đời Đường, đệ tử của Huyền Trang. Tục tính là Tiền, tự Tàng Chân. Tương truyền ông trồng hàng vạn gốc chuối, dùng lá chuối để viết thay cho giấy.
16 Làm đến tước Đông Lăng hầu đời Tần. Nhà Tần mất, nhà lâm vào cảnh nghèo túng, phải trồng dưa ở phía đông thành Trường An để bán. Dưa lớn trái thơm ngon, người đời gọi là Đông Lăng qua
(dưa của Đông Lăng hầu).

17 Theo Văn nghệ loại tụ thì Tống Xử Tông là Thứ sử đời Tấn, có lần mua được một con gà trống có tiếng gáy rất dài, thương yêu rất mực. Con gà học được tiếng người thường cùng Tông nói chuyện suốt ngày,
tỏ ra rất thông minh. Xử Tông nhờ đấy mà ăn nói giỏi giang thêm.

18 Hữu Quân tức Vương Hy Chi, nhà thư pháp lỗi lạc của Trung Quốc, chữ của ông rất quý. Tính ông
rất thích ngỗng, có lần viết hai chương trong cuốn “Đạo đức kinh” để đem chữ đổi lấy một bầy ngỗng.
19 Cuồng sĩ đời Hậu Hán, được tiến cử lên vua Hán Hiến đế. Tào Tháo, lúc đó là Thừa tướng, sai người triệu Nễ Hành tới. Hành rất hận Tào Tháo lấn át quyền vua nên lúc đối đáp, Nễ Hành chê bai tất cả các văn quan võ tướng của Tào Tháo. Tháo muốn làm nhục, cho Hành làm chức Cổ lại để sớm
tối đánh trống hầu những buổi thiết triều hạ. Hành không từ chối. Hôm sau, Tào Tháo mở yến tiệc
để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Tên đánh trống cũ bảo Hành phải mặc áo mới. Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà vào, xắn tay đánh ba hồi trống , âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng đá, tiếng vàng ngân theo ai oán. Cử tọa ngồi nghe đều bùi ngùi sa lệ.
20 Tức Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế (49-33 BC), một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc.
Bị triều đình nhà Hán đem cống cho vua Hung Nô để cầu hòa, Chiêu Quân mang theo cây tỳ bà về
phương Bắc để dùng tiếng đàn thổ lộ hết nỗi niềm sầu hận. Sự tích”Chiêu Quân cống hồ” với hình (con nua)...

Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010

Thu chí (I) - 秋至


秋至 阮攸

Thu chí (I)
Thu đến (I) (Người dịch: Quách Tấn)
香江一片月,
今古許多愁。
往事悲青塚,
新秋到白頭。
有形徒役役,
無病故拘拘。
回首藍江浦,
閒心謝白鷗。

Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Vãng sự bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
Hữu hình đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố
Nhàn tâm tạ bạch âu.

Sông Hương một mảnh nguyệt
Lai láng sầu cổ câm
Chuyện xưa mồ cỏ biếc
Thu mới tóc hoa râm
Có hình thân phải khổ
Không bệnh lưng vẫn khom
Bến Lam Giang ngoảnh lại
Bầy âu vui sớm hôm
st