KIM DUNG*
Tín là chữ gốc Hán đã được Việt hóa từ lâu. Theo chiết tự, “cấu tạo” của chữ Tín gồm:
- Bên trái là chữ Nhân đứng, nghĩa là người.
- Bên phải là chữ Ngôn: Chữ Ngôn gồm chữ Nhị ở trên, chữ Khẩu ở dưới, ngụ ý tuy “hai miệng” nhưng có “một lời”, trước sau như một, không thiên lệch, không thay đổi ( ). Suy rộng ra, chữ Tín là để chỉ niềm tin, đức tin... mà ai cũng phải nghiêm túc giữ gìn và làm theo. Trong truyện Kiều, khi Kim Trọng và Thúy Kiều thề thốt, có câu “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là để dặn nhau thủy chung như nhất, giữ lấy niềm tin suốt đời.
Chữ Tín có vai trò “sống còn” đối với mỗi người, mỗi cơ quan, mỗi địa phương và cả quốc gia. Đạo Nho quan niệm: Người quân tử nhất định phải có Ngũ thường, gồm: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Trong đó, nhân là lòng yêu thương đối với muôn loài; nghĩa là cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải; lễ là sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người; trí là sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai; tín là giữ đúng lời, đáng tin cậy. “Nhân bất tín bất lập”, người không có tín thì không thể tồn tại. Chữ Tín coi như bảo bối của quốc gia (Tín vi quốc chi bảo). Ai trị vì đất nước thì phải giữ bằng được bảo bối để mong mở mặt với thiên hạ. Người bội tín nói lời rồi lại nuốt lời, tiền hậu bất nhất... thì bản thân sẽ bị cô lập, cơ quan sẽ mất tín nhiệm, làm gì nói gì cũng không có người tin nữa (Nhất sự bất tín, vạn sự bất tin). Trong văn hoá giao tiếp, người ta quan niệm: mất gì thì mất đừng để mất lòng tin, bởi vì mất của cải, mất thời gian là mất rất nhiều nhưng mất lòng tin là mất tất cả.
Chữ Tín còn được ghép với nhiều từ khác để làm rộng khái niệm: Tin và giao nhiệm vụ gọi là “Tín nhiệm”, tin và dùng gọi là “Tín dụng”, tin vào việc phải gọi là “Tín nghĩa”.
Tuy vậy, nói về chữ Tín thì dễ, giữ được tín còn khó hơn nhiều, lắm khi còn phải hy sinh của cải, thậm chí cả tính mạng mình để giữ bằng được niềm tin ở đời. Chuyện xưa kể: Nước Lỗ có cái đỉnh nạm ngọc quý làm bảo quốc để thờ. Vua Tề đe dọa gây chiến để chiếm đỉnh làm của riêng. Vua Lỗ sai Chính Tử làm đỉnh giả để cống nộp, song Chính Tử bảo: “Nhà vua quý cái đỉnh ấy bao nhiêu thì tôi quý chữ tín bấy nhiêu!”. Ông đành chịu tội “khi quân” để giữ chữ tín.
Ở ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt coi trọng chữ tín. Từ cuộc sống hàng ngày đến việc quốc gia đại sự, Người không bao giờ để thất tín. Bác quan niệm: Đã là gương thì phải sáng, đã nói là phải làm và không bao giờ Bác viện lý do nào để sai lời hứa. Năm 1947, có một cuộc họp tại chiến khu Việt Bắc. Mưa rừng, lũ cuốn phăng phăng, ai cũng lo Bác không tới được. Vậy mà đến gần giờ họp, mọi người thấy Bác đến, tay chống gậy, nước mưa ướt đầm đìa râu tóc.
Ngày nay, trong thời “kinh tế thị trường”, đồng tiền có thể làm cho chúng ta giàu lên nhưng chính niềm tin mới giữ được danh dự và sự “phát triển bền vững”. Đối với mọi người, “lời hứa là món nợ”, nợ thì phải trả, nhất là lời hứa của những người mới đắc cử trước sự tin tưởng của nhân dân, đồng chí. Quả thật, “chữ Tín quý hơn vàng”.
* Hội Văn học - Nghệ thuật Thái Bình
Có một người bạn hỏi em về chữ tín, em đang tra chữ đó cũng những thành ngữ có dùng nó. Tự nhiên vô blog anh Tuấn có bài này nên đỡ mất công tra nữa. Chúc anh mạnh giỏi.
Trả lờiXóa