KIM DUNG*
Tín là chữ gốc Hán đã được Việt hóa từ lâu. Theo chiết tự, “cấu tạo” của chữ Tín gồm:
- Bên trái là chữ Nhân đứng, nghĩa là người.
- Bên phải là chữ Ngôn: Chữ Ngôn gồm chữ Nhị ở trên, chữ Khẩu ở dưới, ngụ ý tuy “hai miệng” nhưng có “một lời”, trước sau như một, không thiên lệch, không thay đổi ( ). Suy rộng ra, chữ Tín là để chỉ niềm tin, đức tin... mà ai cũng phải nghiêm túc giữ gìn và làm theo. Trong truyện Kiều, khi Kim Trọng và Thúy Kiều thề thốt, có câu “Đinh ninh hai miệng một lời song song” là để dặn nhau thủy chung như nhất, giữ lấy niềm tin suốt đời.
Chữ Tín có vai trò “sống còn” đối với mỗi người, mỗi cơ quan, mỗi địa phương và cả quốc gia. Đạo Nho quan niệm: Người quân tử nhất định phải có Ngũ thường, gồm: Nhân - Nghĩa - Lễ - Trí - Tín. Trong đó, nhân là lòng yêu thương đối với muôn loài; nghĩa là cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải; lễ là sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người; trí là sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai; tín là giữ đúng lời, đáng tin cậy. “Nhân bất tín bất lập”, người không có tín thì không thể tồn tại. Chữ Tín coi như bảo bối của quốc gia (Tín vi quốc chi bảo). Ai trị vì đất nước thì phải giữ bằng được bảo bối để mong mở mặt với thiên hạ. Người bội tín nói lời rồi lại nuốt lời, tiền hậu bất nhất... thì bản thân sẽ bị cô lập, cơ quan sẽ mất tín nhiệm, làm gì nói gì cũng không có người tin nữa (Nhất sự bất tín, vạn sự bất tin). Trong văn hoá giao tiếp, người ta quan niệm: mất gì thì mất đừng để mất lòng tin, bởi vì mất của cải, mất thời gian là mất rất nhiều nhưng mất lòng tin là mất tất cả.
Chữ Tín còn được ghép với nhiều từ khác để làm rộng khái niệm: Tin và giao nhiệm vụ gọi là “Tín nhiệm”, tin và dùng gọi là “Tín dụng”, tin vào việc phải gọi là “Tín nghĩa”.
Tuy vậy, nói về chữ Tín thì dễ, giữ được tín còn khó hơn nhiều, lắm khi còn phải hy sinh của cải, thậm chí cả tính mạng mình để giữ bằng được niềm tin ở đời. Chuyện xưa kể: Nước Lỗ có cái đỉnh nạm ngọc quý làm bảo quốc để thờ. Vua Tề đe dọa gây chiến để chiếm đỉnh làm của riêng. Vua Lỗ sai Chính Tử làm đỉnh giả để cống nộp, song Chính Tử bảo: “Nhà vua quý cái đỉnh ấy bao nhiêu thì tôi quý chữ tín bấy nhiêu!”. Ông đành chịu tội “khi quân” để giữ chữ tín.
Ở ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặc biệt coi trọng chữ tín. Từ cuộc sống hàng ngày đến việc quốc gia đại sự, Người không bao giờ để thất tín. Bác quan niệm: Đã là gương thì phải sáng, đã nói là phải làm và không bao giờ Bác viện lý do nào để sai lời hứa. Năm 1947, có một cuộc họp tại chiến khu Việt Bắc. Mưa rừng, lũ cuốn phăng phăng, ai cũng lo Bác không tới được. Vậy mà đến gần giờ họp, mọi người thấy Bác đến, tay chống gậy, nước mưa ướt đầm đìa râu tóc.
Ngày nay, trong thời “kinh tế thị trường”, đồng tiền có thể làm cho chúng ta giàu lên nhưng chính niềm tin mới giữ được danh dự và sự “phát triển bền vững”. Đối với mọi người, “lời hứa là món nợ”, nợ thì phải trả, nhất là lời hứa của những người mới đắc cử trước sự tin tưởng của nhân dân, đồng chí. Quả thật, “chữ Tín quý hơn vàng”.
* Hội Văn học - Nghệ thuật Thái Bình
blog lập ra với mục đích học hỏi,chia sẻ các vấn đề liên quan đến việc học chữ Hán-Nôm.
Thứ Hai, 27 tháng 9, 2010
Thứ Tư, 18 tháng 8, 2010
Thứ Hai, 26 tháng 7, 2010
U MỘNG ẢNH

TRƯƠNG TRÀO
U MỘNG ẢNH
Huỳnh Ngọc Chiến
dịch và chú thích
Quyển thượng
1. Kinh sách nên đọc vào mùa đông, vì tinh thần chuyên nhất; sử nên đọc vào mùa hè, vì ngày dài; chư tử nên đọc vào mùa thu, vì tư tưởng khác biệt; sách các nhà khác nên đọc vào mùa xuân, vì khí trời thoải mái.
讀 經 宜 冬, 其 神 專 也 ; 讀 史 宜 夏, 其 時 久 也 ; 讀 諸 子 宜 秋, 其 致 別 也 ; 讀 諸 集 宜 春 其 機 暢 也。
Độc kinh nghi đông, kỳ thần chuyên dã; độc sử nghi hạ, kỳ thời cửu dã; độc chư tử nghi thu, kỳ trí biệt dã; độc chư tập nghi xuân, kỳ cơ sướng dã.
2. Kinh truyện1 nên đọc một mình, mà sử giám2 nên đọc cùng bạn.
經 傳 宜 獨 坐 讀,史 鑑 宜 與 友 共 讀。
Kinh truyện nghi độc tọa độc; sử giám nghi dữ hữu cộng độc.
3. Không thiện không ác là bậc thánh, nhiều thiện ít ác là bậc hiền, ít thiện nhiều ác
là hạng người tầm thường, có ác không thiện là hạng tiểu nhân, có thiện không ác là hàng Tiên, Phật.
無 善 無 惡 是 聖 人, 善 多 惡 少 是 賢 者, 善 少 惡 多 是 庸 人, 有 惡 無 善 是 小 人, 有 善 無 惡 是 仙 佛。
Vô thiện vô ác thị thánh nhân; thiện đa ác thiểu thị hiền giả; thiện thiểu ác đa thị dung nhân; hữu ác vô thiện thị tiểu nhân; hữu thiện vô ác thị Tiên Phật.
4. Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì có thể không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Uyên Minh3 làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh4 làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do5 làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê6 làm tri kỷ,
1 Kinh truyện:Kinh chỉ những tác phẩm kinh điển, truyện thường dùng để lời chú thích và giảng
nghĩa những tác phẩm kinh điển ấy.
2 Sử và giám chỉ chung những tác phẩm lịch sử soạn theo lối kinh truyện hoặc theo lối biên niên, nhằm ghi lại những bài học lịch sử cho đời sau.
3 Tức Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, trả áo từ quan về vui cảnh điền viên. Có bài Quy khứ lai từ rất nổi tiếng. Ông sống thanh cao, và rất yêu hoa cúc, làm nhiều bài thơ về hoa cúc. Trong hai mươi bài thơ “Ẩm tửu” có câu “Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn” 採菊東籬下,悠然見南山 (hái cúc bờ rào phía đông, xa xa thấy núi Nam)
4 Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là”Tây Hồ ẩn sĩ”. Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
5 Tức Vương Huy Chi, con trai nhà thư pháp Vương Hy Chi, tự Tử Do, người đời Đông Tấn. Theo Thế
thuyết tân ngữ, Vương Huy Chi có lần đến ở trọ nhà người, bảo trồng trúc. Có người hỏi : “Ở tạm,
vậy có phiền gì chăng?”. Vương chỉ cây trúc, bảo: “Hà khả nhất nhật vô thử quân? 何可一日 無 此 君!(Làm sao có thể một ngày thiếu người này được?).
6 Tức Chu Đôn Di, nhà lý học đời Nam Tống, yêu hoa sen, có bài “Ái liên thuyết” nổi tiếng ở đời.
1. Kinh sách nên đọc vào mùa đông, vì tinh thần chuyên nhất; sử nên đọc vào mùa hè, vì ngày dài; chư tử nên đọc vào mùa thu, vì tư tưởng khác biệt; sách các nhà khác nên đọc vào mùa xuân, vì khí trời thoải mái.
讀 經 宜 冬, 其 神 專 也 ; 讀 史 宜 夏, 其 時 久 也 ; 讀 諸 子 宜 秋, 其 致 別 也 ; 讀 諸 集 宜 春 其 機 暢 也。
Độc kinh nghi đông, kỳ thần chuyên dã; độc sử nghi hạ, kỳ thời cửu dã; độc chư tử nghi thu, kỳ trí biệt dã; độc chư tập nghi xuân, kỳ cơ sướng dã.
2. Kinh truyện1 nên đọc một mình, mà sử giám2 nên đọc cùng bạn.
經 傳 宜 獨 坐 讀,史 鑑 宜 與 友 共 讀。
Kinh truyện nghi độc tọa độc; sử giám nghi dữ hữu cộng độc.
3. Không thiện không ác là bậc thánh, nhiều thiện ít ác là bậc hiền, ít thiện nhiều ác
là hạng người tầm thường, có ác không thiện là hạng tiểu nhân, có thiện không ác là hàng Tiên, Phật.
無 善 無 惡 是 聖 人, 善 多 惡 少 是 賢 者, 善 少 惡 多 是 庸 人, 有 惡 無 善 是 小 人, 有 善 無 惡 是 仙 佛。
Vô thiện vô ác thị thánh nhân; thiện đa ác thiểu thị hiền giả; thiện thiểu ác đa thị dung nhân; hữu ác vô thiện thị tiểu nhân; hữu thiện vô ác thị Tiên Phật.
4. Trong thiên hạ có được một người tri kỷ, thì có thể không còn ân hận gì nữa. Đâu phải chỉ có con người mới thế, mà cả vật cũng vậy. Như cúc lấy Uyên Minh3 làm tri kỷ, mai lấy Hòa Tĩnh4 làm tri kỷ, trúc lấy Tử Do5 làm tri kỷ, sen lấy Liêm Khê6 làm tri kỷ,
1 Kinh truyện:Kinh chỉ những tác phẩm kinh điển, truyện thường dùng để lời chú thích và giảng
nghĩa những tác phẩm kinh điển ấy.
2 Sử và giám chỉ chung những tác phẩm lịch sử soạn theo lối kinh truyện hoặc theo lối biên niên, nhằm ghi lại những bài học lịch sử cho đời sau.
3 Tức Đào Tiềm, hiệu Uyên Minh, nhà thơ lớn đời Đông Tấn, trả áo từ quan về vui cảnh điền viên. Có bài Quy khứ lai từ rất nổi tiếng. Ông sống thanh cao, và rất yêu hoa cúc, làm nhiều bài thơ về hoa cúc. Trong hai mươi bài thơ “Ẩm tửu” có câu “Thái cúc đông ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn” 採菊東籬下,悠然見南山 (hái cúc bờ rào phía đông, xa xa thấy núi Nam)
4 Tức Lâm Bô, nhà thơ đời Bắc Tống, được gọi là”Tây Hồ ẩn sĩ”. Ống một mình ở Tây Hồ, nuôi hạc trồng mai, và thường bảo lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con.
5 Tức Vương Huy Chi, con trai nhà thư pháp Vương Hy Chi, tự Tử Do, người đời Đông Tấn. Theo Thế
thuyết tân ngữ, Vương Huy Chi có lần đến ở trọ nhà người, bảo trồng trúc. Có người hỏi : “Ở tạm,
vậy có phiền gì chăng?”. Vương chỉ cây trúc, bảo: “Hà khả nhất nhật vô thử quân? 何可一日 無 此 君!(Làm sao có thể một ngày thiếu người này được?).
6 Tức Chu Đôn Di, nhà lý học đời Nam Tống, yêu hoa sen, có bài “Ái liên thuyết” nổi tiếng ở đời.
đào lấy những người trốn vua Tần làm tri kỷ7, hạnh lấy Đổng Phụng8 làm tri kỷ, đá lấy
Mễ Điên9 làm tri kỷ, trái vải lấy Thái Chân10 làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng11, Lục Vũ12 làm
tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân13 làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng14 làm tri kỷ, chuối lấy
Hoài Tố15 làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình16 làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông17 làm tri kỷ, ngỗng
lấy Hữu Quân18 làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành19 làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi20 làm tri
7 Theo Đào hoa viên ký của Đào Tiềm có người nhặt cánh hoa đào trên suối, bèn lần theo con suối
đi ngược về nguồn thì gặp một làng trông toàn đào sống thanh bình như cảnh thần tiên. Hỏi ra mới biết tổ tiên họ là những người trốn chính sách tàn bạo của nhà Tần lánh đến đây sống.
8 Danh y thời Tam Quốc, tự Quân Dị. Mõi khi chữa bệnh cho người, không lấy thù lao mà chỉ yêu cầu trồng hạnh. được hơn mười vạn gốc hạnh. Khi hạnh ra trái, ông đem đổi gạo để giúp người nghèo.
9 Tức Mễ Phí đời Nam Tống, yêu đá đến độ si cuồng, có lần khăn áo chỉnh tề ra lạy viên đá gọi là
”ông nhạc” nên bị đời gọi là Mễ Điên.
10 Tứ Dương Quý Phi, rất thích ăn trái vải (lệ chi) của đất Bắc Việt Nam. Đến mùa vải. Đường Minh Hoàng phải cho ngựa trạm mang vải từ miền Bắc Việt Nam đến kinh đô Trường An cho Dương Quý Phi.
11 Nhà thơ đời Đường, hiệu Ngọc Xuyên Tử, rất mê trà, có bài thơ Trà Ca.
12 Tác gia đời Đường có cuốn Trà Kinh, được xem là cuốn kinh điển về trà.
13 Tức Khuất Nguyên, nhà thơ lớn đời Chiến Quốc, có tập Sở Từ nổi tiếng. Trong thơ, ông nói đến cỏ
thơm để ví với lòng trung của người quân tử.
14 Trương Hàn, tự Quý Ưng, đời Tấn làm quan ở Lạc Dương, nghe gió thu nổi lên, bỗng nhớ món canh rau rút cá rô (thuần lư) ở quê nhà, bèn từ quan về quê; về sau từ "thuần lư" được dùng để chỉ lòng nhớ quê.
15 Tăng nhân đời Đường, đệ tử của Huyền Trang. Tục tính là Tiền, tự Tàng Chân. Tương truyền ông trồng hàng vạn gốc chuối, dùng lá chuối để viết thay cho giấy.
16 Làm đến tước Đông Lăng hầu đời Tần. Nhà Tần mất, nhà lâm vào cảnh nghèo túng, phải trồng dưa ở phía đông thành Trường An để bán. Dưa lớn trái thơm ngon, người đời gọi là Đông Lăng qua
(dưa của Đông Lăng hầu).
17 Theo Văn nghệ loại tụ thì Tống Xử Tông là Thứ sử đời Tấn, có lần mua được một con gà trống có tiếng gáy rất dài, thương yêu rất mực. Con gà học được tiếng người thường cùng Tông nói chuyện suốt ngày,
tỏ ra rất thông minh. Xử Tông nhờ đấy mà ăn nói giỏi giang thêm.
18 Hữu Quân tức Vương Hy Chi, nhà thư pháp lỗi lạc của Trung Quốc, chữ của ông rất quý. Tính ông
rất thích ngỗng, có lần viết hai chương trong cuốn “Đạo đức kinh” để đem chữ đổi lấy một bầy ngỗng.
19 Cuồng sĩ đời Hậu Hán, được tiến cử lên vua Hán Hiến đế. Tào Tháo, lúc đó là Thừa tướng, sai người triệu Nễ Hành tới. Hành rất hận Tào Tháo lấn át quyền vua nên lúc đối đáp, Nễ Hành chê bai tất cả các văn quan võ tướng của Tào Tháo. Tháo muốn làm nhục, cho Hành làm chức Cổ lại để sớm
tối đánh trống hầu những buổi thiết triều hạ. Hành không từ chối. Hôm sau, Tào Tháo mở yến tiệc
để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Tên đánh trống cũ bảo Hành phải mặc áo mới. Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà vào, xắn tay đánh ba hồi trống , âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng đá, tiếng vàng ngân theo ai oán. Cử tọa ngồi nghe đều bùi ngùi sa lệ.
20 Tức Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế (49-33 BC), một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc.
Bị triều đình nhà Hán đem cống cho vua Hung Nô để cầu hòa, Chiêu Quân mang theo cây tỳ bà về
phương Bắc để dùng tiếng đàn thổ lộ hết nỗi niềm sầu hận. Sự tích”Chiêu Quân cống hồ” với hình (con nua)...
Mễ Điên9 làm tri kỷ, trái vải lấy Thái Chân10 làm tri kỷ, trà lấy Lư Đồng11, Lục Vũ12 làm
tri kỷ, cỏ thơm lấy Linh Quân13 làm tri kỷ, thuần lư lấy Quý Ưng14 làm tri kỷ, chuối lấy
Hoài Tố15 làm tri kỷ, dưa lấy Thiệu Bình16 làm tri kỷ, gà lấy Xử Tông17 làm tri kỷ, ngỗng
lấy Hữu Quân18 làm tri kỷ, trống lấy Nễ Hành19 làm tri kỷ, tỳ bà lấy Minh Phi20 làm tri
7 Theo Đào hoa viên ký của Đào Tiềm có người nhặt cánh hoa đào trên suối, bèn lần theo con suối
đi ngược về nguồn thì gặp một làng trông toàn đào sống thanh bình như cảnh thần tiên. Hỏi ra mới biết tổ tiên họ là những người trốn chính sách tàn bạo của nhà Tần lánh đến đây sống.
8 Danh y thời Tam Quốc, tự Quân Dị. Mõi khi chữa bệnh cho người, không lấy thù lao mà chỉ yêu cầu trồng hạnh. được hơn mười vạn gốc hạnh. Khi hạnh ra trái, ông đem đổi gạo để giúp người nghèo.
9 Tức Mễ Phí đời Nam Tống, yêu đá đến độ si cuồng, có lần khăn áo chỉnh tề ra lạy viên đá gọi là
”ông nhạc” nên bị đời gọi là Mễ Điên.
10 Tứ Dương Quý Phi, rất thích ăn trái vải (lệ chi) của đất Bắc Việt Nam. Đến mùa vải. Đường Minh Hoàng phải cho ngựa trạm mang vải từ miền Bắc Việt Nam đến kinh đô Trường An cho Dương Quý Phi.
11 Nhà thơ đời Đường, hiệu Ngọc Xuyên Tử, rất mê trà, có bài thơ Trà Ca.
12 Tác gia đời Đường có cuốn Trà Kinh, được xem là cuốn kinh điển về trà.
13 Tức Khuất Nguyên, nhà thơ lớn đời Chiến Quốc, có tập Sở Từ nổi tiếng. Trong thơ, ông nói đến cỏ
thơm để ví với lòng trung của người quân tử.
14 Trương Hàn, tự Quý Ưng, đời Tấn làm quan ở Lạc Dương, nghe gió thu nổi lên, bỗng nhớ món canh rau rút cá rô (thuần lư) ở quê nhà, bèn từ quan về quê; về sau từ "thuần lư" được dùng để chỉ lòng nhớ quê.
15 Tăng nhân đời Đường, đệ tử của Huyền Trang. Tục tính là Tiền, tự Tàng Chân. Tương truyền ông trồng hàng vạn gốc chuối, dùng lá chuối để viết thay cho giấy.
16 Làm đến tước Đông Lăng hầu đời Tần. Nhà Tần mất, nhà lâm vào cảnh nghèo túng, phải trồng dưa ở phía đông thành Trường An để bán. Dưa lớn trái thơm ngon, người đời gọi là Đông Lăng qua
(dưa của Đông Lăng hầu).
17 Theo Văn nghệ loại tụ thì Tống Xử Tông là Thứ sử đời Tấn, có lần mua được một con gà trống có tiếng gáy rất dài, thương yêu rất mực. Con gà học được tiếng người thường cùng Tông nói chuyện suốt ngày,
tỏ ra rất thông minh. Xử Tông nhờ đấy mà ăn nói giỏi giang thêm.
18 Hữu Quân tức Vương Hy Chi, nhà thư pháp lỗi lạc của Trung Quốc, chữ của ông rất quý. Tính ông
rất thích ngỗng, có lần viết hai chương trong cuốn “Đạo đức kinh” để đem chữ đổi lấy một bầy ngỗng.
19 Cuồng sĩ đời Hậu Hán, được tiến cử lên vua Hán Hiến đế. Tào Tháo, lúc đó là Thừa tướng, sai người triệu Nễ Hành tới. Hành rất hận Tào Tháo lấn át quyền vua nên lúc đối đáp, Nễ Hành chê bai tất cả các văn quan võ tướng của Tào Tháo. Tháo muốn làm nhục, cho Hành làm chức Cổ lại để sớm
tối đánh trống hầu những buổi thiết triều hạ. Hành không từ chối. Hôm sau, Tào Tháo mở yến tiệc
để thết tân khách, rồi sai Nễ Hành ra đánh trống. Tên đánh trống cũ bảo Hành phải mặc áo mới. Hành không thèm nghe, cứ mặc áo cũ mà vào, xắn tay đánh ba hồi trống , âm tiết tuyệt diệu, nghe văng vẳng như có tiếng đá, tiếng vàng ngân theo ai oán. Cử tọa ngồi nghe đều bùi ngùi sa lệ.
20 Tức Chiêu Quân, cung phi đời Hán Nguyên Đế (49-33 BC), một trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc.
Bị triều đình nhà Hán đem cống cho vua Hung Nô để cầu hòa, Chiêu Quân mang theo cây tỳ bà về
phương Bắc để dùng tiếng đàn thổ lộ hết nỗi niềm sầu hận. Sự tích”Chiêu Quân cống hồ” với hình (con nua)...
Thứ Năm, 15 tháng 4, 2010
Thu chí (I) - 秋至

秋至 阮攸
Thu chí (I)
Thu đến (I) (Người dịch: Quách Tấn)
香江一片月,
今古許多愁。
往事悲青塚,
新秋到白頭。
有形徒役役,
無病故拘拘。
回首藍江浦,
閒心謝白鷗。
Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Vãng sự bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
Hữu hình đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố
Nhàn tâm tạ bạch âu.
Sông Hương một mảnh nguyệt
Lai láng sầu cổ câm
Chuyện xưa mồ cỏ biếc
Thu mới tóc hoa râm
Có hình thân phải khổ
Không bệnh lưng vẫn khom
Bến Lam Giang ngoảnh lại
Bầy âu vui sớm hôm
st
Thu chí (I)
Thu đến (I) (Người dịch: Quách Tấn)
香江一片月,
今古許多愁。
往事悲青塚,
新秋到白頭。
有形徒役役,
無病故拘拘。
回首藍江浦,
閒心謝白鷗。
Hương Giang nhất phiến nguyệt
Kim cổ hứa đa sầu
Vãng sự bi thanh trủng
Tân thu đáo bạch đầu
Hữu hình đồ dịch dịch
Vô bệnh cố câu câu
Hồi thủ Lam Giang phố
Nhàn tâm tạ bạch âu.
Sông Hương một mảnh nguyệt
Lai láng sầu cổ câm
Chuyện xưa mồ cỏ biếc
Thu mới tóc hoa râm
Có hình thân phải khổ
Không bệnh lưng vẫn khom
Bến Lam Giang ngoảnh lại
Bầy âu vui sớm hôm
st
Tứ Phối là ai?

Trong khi Đức Khổng Tử được người đời xưng tụng là Vạn Thế Sư Biểu thì Tứ Phối là bốn học trò nổi tiếng của Ngài thuộc nhiều đời được phối hợp thờ chung với Ngài trong các Khổng Tử Miếu hay các Văn Miếu tại Trung Hoa và Việt Nam. Họ là Nhan Hồi, Tăng Sâm, Tử Tư và Mạnh Tử, những cao đồ đã được tôn thánh vì đức hạnh hay tài năng của họ.
1. Nhan Hồi: (顏 回) Người nước Lỗ, họ Nhan, tên Hồi, tự là Tử Uyên, nên cũng gọi là Nhan Uyên (顏 淵), là con của ông Nhan Do.
1. Nhan Hồi: (顏 回) Người nước Lỗ, họ Nhan, tên Hồi, tự là Tử Uyên, nên cũng gọi là Nhan Uyên (顏 淵), là con của ông Nhan Do.
Nhan Hồi kém hơn Đức Khổng Tử 30 tuổi, thiên tư thông minh, nhanh nhẹn, hiếu học, chuộng Lễ, làm việc gì cũng không lầm lỗi đến hai lần, nói điều gì cũng không cẩu thả, khi giận người nầy không giận lây người kia, đứng đầu khoa đức hạnh trong cửa Khổng. Nhan Hồi theo học với Đức Khổng Tử, và là học trò giỏi nhứt trong số các học trò của Đức Khổng Tử.
Nhan Hồi nhà nghèo, ở trong ngõ hẹp, giỏ cơm bầu nước, nếu là người khác thì không chịu được mà lo buồn, Nhan Hồi thì tự nhiên vui vẻ, học đạo. Đức Khổng Tử khen là người hiền và có nhân. Năm Nhan Hồi 29 tuổi thì tóc đã bạc trắng.
Đức Khổng Tử thường khen rằng: Ta có trò Hồi, cho nên các học trò ngày càng thân với Ta.
Nhan Hồi mất lúc còn rất trẻ, mới 31 tuổi. Đức Khổng Tử than rằng: - Trời hại ta! Trời hại ta!
Nói đến Nhan Hồi ta thường nghe đến các điển tích như: Bầu Nhan (Bầu nước của Nhan Hồi), Lá cờ trắng của Nhan Uyên,…. vì ông sống rất đạm bạc và sẵn lòng hi sinh mình để giúp dỡ người khác .
Người đời sau xưng tụng N
han Hồi là Phục Thánh Nhan Tử. 2. Tăng Sâm: (曾 參) Ngài họ Tăng tên Sâm, tên tự là Tử Dư (子與) , con của ông Tăng Điểm, người ở làng Gia Trường, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc (phía nam Vũ Thành nước Lỗ thời Xuân Thu). Hai cha con Tăng Điểm và Tăng Sâm cùng học với Đức Khổng Tử. Tánh Tăng Sâm rất hiếu thuận, vì thế Đức Khổng Tử cảm động, làm ra sách Hiếu Kinh.
Tăng Tử nhỏ hơn Đức Khổng Tử 46 tuổi, rất nghèo, tự cày bừa làm ruộng sinh sống, có hôm thiếu gạo ăn, nhưng Ngài không lo buồn, vẫn cất tiếng hát sang sảng như tiếng chuông khánh. Đức Khổng Tử thường bảo Ngài là người đần độn, thế mà trong cửa Khổng có nhiều người thông minh tài giỏi, không ai thọ truyền được đạo của Đức Khổng Tử, chỉ có một mình Ngài hiểu được cái Đạo Nhất quán, vì cái học của Ngài rất thành thực và đốc kính.
Ngài Tăng Sâm có làm ra sách Tăng Tử gồm 18 thiên và sách Đại Học gồm 10 thiên. Cùng với các môn đệ, Ngài thâu góp lời của Đức Khổng phu Tử dạy thành sách Luận Ngữ. Đời sau tôn Tăng Tử là Tông Thánh Tăng Tử, phong tước vị là Thành Quốc Công, được thờ chung và phối hưởng với Đức Khổng Tử. Tăng Tử cũng được đời sau tôn làm gương hiếu thảo thứ 3 trong Nhị thập tứ Hiếu.
Nhắc đến Tăng Sâm trong văn học thường dùng điển tích Tăng Sâm giết người, Lòng hiếu của Tăng Sâm...

3. Khổng Cấp: (孔 伋) Đức Khổng Tử có người con tên là Khổng Lý, tự là Bá Ngư, Khổng Lý có con tên là Khổng Cấp, tự là Tử Tư (子 思). Như vậy, Tử Tư gọi Đức Khổng Tử là ông nội.
Tử Tư học với Tăng Tử, được Tăng Tử truyền cho tâm pháp của Khổng gia. Tử Tư noi theo công nghiệp của Đức Thánh Tổ, làm ra sách Trung Dung, và dạy học trò có đến vài trăm người. Ông và học trò tạo nên một phái lớn trong Nho giáo được gọi là Phái Tử Tư.
Tử Tư mất thọ 62 tuổi. Đời sau phong Ngài là Châu Nguyên Hầu và tôn Ngài là Thuật Thánh Tử Tư, được thờ chung và phối hưởng với Đức Khổng Tử.
4. Mạnh Tử: 孟 子 (372-289 trước TL) Họ Mạnh tên Kha, tự là Tử Dư thuộc dòng dõi Công Tộc Mạnh Tôn ở nước Lỗ. người huyện Trâu, tỉnh Sơn Đông (nước Lỗ thời Xuân Thu).Theo Mạnh Tử phả, Mạnh Tử sanh ngày mùng 2 tháng 4 năm thứ 4 đời vua Chu Liệt Vương (372 trước TL) và mất vào ngày 15 tháng 11 năm thứ 26 đời vua Chu Noãn Vương (289 trước TL), thọ 83 tuổi.
Ông là học trò của Khổng Cấp tức thầy Tử Tư, có thể nói là học trò đời thứ 4 của Đức Khổng Tử. Ông có tài hùng biện. Sang thời Chiến Quốc, thiên tử nhà Chu suy yếu, chư hầu cát cứ nhiều nơi, loạn lạc bốn phương, ông muốn noi gương Khổng Tử đi chu du các nước chư hầu để đem cái đạo của Thánh nhân ra ứng dụng.
Tuy nhiên, cũng như Đức Khổng Tử, không vua nào chịu theo đạo Nhân Nghĩa của ông. Đến khi tuổi già, sức đã mỏi, ông xin từ chức quan khanh ở nước Tề trở về quê nhà dạy học trò và soạn sách Mạnh Tử.
Ông lập ra thuyết Tánh Thiện (Nhân chi sơ, tánh bổn thiện), thuyết Dân vi quý... Ông là người hoạt động xông xáo và có ảnh hưởng lớn trong công cuộc truyền bá Nho học tại Trung Quốc ngày ấy. Do đó, người ta tôn Mạnh Tử là bực Á Thánh, tức là bực Thánh đứng hàng thứ nhì dưới Khổng Tử, và được truy phong là Trâu Quốc Công (Trâu là đất Trâu, sanh quán của Mạnh Tử) , được phối hưởng nơi miếu thờ Đức Khổng Tử.
Trong văn học ta thường nghe đến điển tích liên quan đến ông như Mạnh mẫu trạch lân (mẹ của Mạnh Tử chọn xóm để ở) Mạnh mẫu đoạn ky (mẹ của Mạnh Tử cắt khung cửi)...
Thứ Tư, 14 tháng 4, 2010
Câu đối vui

Lang thang trên mạng thấy hay hay sưu tầm thỉnh thoảng đọc cũng thấy vui:
Thày giáo tháo giày, tháo cả ủng thủng cả áo, lấy giáo án dán áo
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa nhoà cả hương, lấy lương hưu lưu hương
Thiên sứ thiến sư, tạo quả dáng, dạng quả táo, lấy đầu mới mời đấu
Bao Chửng bưng chảo, bưng cả lạc, bạc cả lưng, lấy cán dao dán cao
Chị Thường, nằm trên giường, dấu "cái bình thường" vào trong
Anh Trọng, đứng trên chõng, đưa "cái quan trọng" ra ngoài.
Ông ăn nên làm ra, xây lầu tầng ba, gần trời xa đất
Tôi có sao đành vậy, ở nhà cấp bốn, gần đất xa trời
Đường lạnh, dốc trơn, cô gái Hơ Mông bên bếp lửa
Đường xa, dốc thẳng, chàng trai Mường Tè bên gốc cây
Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt
Lọc lừa luồn lách lại leo lên
Ra xứ Nghệ, đến quán Hành, uống rượu gừng, chuyện cà riềng cà tỏi.Đến Đồng Nai, Nhớ Kỳ Lừa, ăn thịt chó, ngồi tán vượn, tán hươu
Bài bạc thức thâu đêm, mắt thâm thì, vui như Tết
Rượu chè say suốt sáng, mũi sụt sịt, đẹp tựa Xuân
Con bò cạp cạp con bò cạp, cạp rồi lại bò, bò rồi lại cạp.
Con tắc kè kè con tắc kè, kè xong rồi tắc, tắc xong rồi kè
Anh tiểu thương thương chị tiểu thương, thương rồi lại tiểu, tiểu rồi lại thương.
Anh bán thịt "thịt" chị bán thịt, "thịt" rồi lại bán, bán rồi lại "thịt"
Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật rồi lại sinh, sinh rồi lại vật
Anh cứu thương thương chị cứu thương, thương rồi lại cứu, cứu rồi lại thương
Thày giáo tháo giày, tháo cả ủng thủng cả áo, lấy giáo án dán áo
Nhà trường nhường trà, nhường cả hoa nhoà cả hương, lấy lương hưu lưu hương
Thiên sứ thiến sư, tạo quả dáng, dạng quả táo, lấy đầu mới mời đấu
Bao Chửng bưng chảo, bưng cả lạc, bạc cả lưng, lấy cán dao dán cao
Chị Thường, nằm trên giường, dấu "cái bình thường" vào trong
Anh Trọng, đứng trên chõng, đưa "cái quan trọng" ra ngoài.
Ông ăn nên làm ra, xây lầu tầng ba, gần trời xa đất
Tôi có sao đành vậy, ở nhà cấp bốn, gần đất xa trời
Đường lạnh, dốc trơn, cô gái Hơ Mông bên bếp lửa
Đường xa, dốc thẳng, chàng trai Mường Tè bên gốc cây
Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt
Lọc lừa luồn lách lại leo lên
Ra xứ Nghệ, đến quán Hành, uống rượu gừng, chuyện cà riềng cà tỏi.Đến Đồng Nai, Nhớ Kỳ Lừa, ăn thịt chó, ngồi tán vượn, tán hươu
Bài bạc thức thâu đêm, mắt thâm thì, vui như Tết
Rượu chè say suốt sáng, mũi sụt sịt, đẹp tựa Xuân
Con bò cạp cạp con bò cạp, cạp rồi lại bò, bò rồi lại cạp.
Con tắc kè kè con tắc kè, kè xong rồi tắc, tắc xong rồi kè
Anh tiểu thương thương chị tiểu thương, thương rồi lại tiểu, tiểu rồi lại thương.
Anh bán thịt "thịt" chị bán thịt, "thịt" rồi lại bán, bán rồi lại "thịt"
Thầy sinh vật vật cô sinh vật, vật rồi lại sinh, sinh rồi lại vật
Anh cứu thương thương chị cứu thương, thương rồi lại cứu, cứu rồi lại thương
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)

